a di đà phật tiếng hoa là gì

4. Thần chú của Đức Phật A DI ĐÀ (AMITABHA Buddha): OM AMITABHA HRI. Câu chú này có công dụng tiêu tội cphía, trì tụng câu chú này cũng giống như là niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Xem thêm: Tự Tử: Tin Tức, Clip, Video Hình Ảnh Tự Sát, Attention Required! Hành mang lúc trì tụng thì nếu Các bạn đang tìm hiểu về A Di Đà Phật Tiếng Hoa Là Gì đúng không? Và chưa biết thế nào là hợp lý hay nói cách khác là chưa có câu trả lời thoả đáng, vậy thì hôm nay bạn đã có được giái đáp về vấn đề A Di Đà Phật Tiếng Hoa … A Di Đà Phật Tiếng Hoa Là Gì Read More » Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ. Trong Kinh Bi Hoa nói rằng: “Về khoảng hằng sa kiếp trước, có một đại kiếp gọi là Thiện trì 1. Phật A Di Đà là ai? Phật A Di Đà là vị Phật đang được tôn thờ nhiều nhất của Phật Giáo Đại Thừa. Sự tích Phật A Di Đà bắt nguồn từ kinh Đại A Di Đà, về thời Đức Phật Thế Tự Tại Vương ra đời. Lúc này có một vị quốc vương tên là Kiều Thi Ca. Đức phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ, Trong Kinh Bi Hoa nói rằng: Mỗi một đóa hoa đều có một triệu cái lá bằng vàng cao đến năm do-tuần, đài hoa bằng mã não, tua hoa bằng bảy món báu, cao đến mười do-tuần, hai bề ngang dọc đều rộng đến bảy do-tuần. “Bấy giờ, đức Phật Liên Hoa Tôn ngồi trên đóa hoa ấy, chỉ qua một đêm mà confjavasmegh1974. A Di Đà Phật . Sự Việc Lớn Nhất Đời Người Là Gì ? . Hoà Thượng Tịnh Không. Nam mô A di đà Phật... Prajna paramite.... Nam mô A Di Đà Phật. Why the monks! Nam mô a di đà phật Namonitabhaya... Nam mô A di đà Phật! Prajna paramita Nam mô A di đà Phật! Prajna paramita..... Nam mô A di đà Phật! Pao-Yeh-Pao-Lo-Mi Thí dụ, một Phật tử có thể niệm câu “Nam mô A Di Đà Phật” hàng ngàn lần mỗi ngày. For instance, thousands of times a day, a Buddhist may repeat the prayer “I place my faith in Amida Buddha.” 13 Một sự điều chỉnh khác đặc biệt có ảnh hưởng bên Trung Quốc và Nhật Bản là học thuyết Miền Cực Lạc về phía Tây do Phật A Di Đà lập ra. 13 Another adjustment that became particularly influential in China and Japan is the doctrine of the Pure Land to the West, created by Buddha Amitabha, or Amida. Các Phật tử theo pháp môn Tịnh Độ ở Trung Hoa và Nhật Bản tin rằng bằng cách không ngừng niệm “A Di Đà”, danh hiệu của Vô Lượng Quang Phật, họ sẽ được vãng sinh về cõi Cực Lạc, hoặc Tây Phương Tịnh Độ, nơi họ sẽ sống trong tuyệt đỉnh hạnh phúc. Followers of the Pure Land sects of Buddhism in China and Japan believe that by endlessly reciting “Amitabha,” the name of the Buddha of Unlimited Light, they will be reborn in the Pure Land, or Western Paradise, where they will live in supreme happiness. Sau đó, các nhà sư Nhật bản, như Yogacara sư Jōkei, công nhận rằng tái sinh trên Núi Potalaka là một cách dễ dàng hơn để đạt được bước tiến trên con đường Phật giáo, Tịnh độ của A-di-đà. Later Japanese Buddhists, such as the Japanese Yogacara monk Jōkei, espoused aspiring rebirth on Mount Potalaka as an easier way to attain progress on the Buddhist path than the more well-known pure land of Amitābha. Trong Phật giáo Đại thừa, đặc biệt là những Phật tử theo trường phái Tịnh độ thì Kinh A Di Đà là bản kinh vô cùng quan trọng. Bài kinh này được hàng triệu Phật tử nhiệt thành thường xuyên truyền tụng trong các thời khóa tu tập. Hôm nay, Hoa Sen Phật xin tổng hợp những thông tin hữu ích về kinh A Di Đà để gửi đến quý độc gốc kinh A Di ĐàÝ nghĩa của kinh A Di ĐàKinh Phật thuyết A Di ĐàKỳ viên đại hộiY báo chánh báoY báo trang nghiêmChánh báo vô lượng thù thắngNhơn hạnh vãng sanhSáu phương Phật đồng khuyên tinThuyết kinh bất khóNghi thức tụng kinh A Di ĐàNghi thức sám hối trước khi tụng kinhNghi thức tụng kinh10 điều tâm niệm sau khi thực hiện xong nghi thức tụng kinh A Di ĐàKinh A Di Đà tiếng Phạn Amitabha sutra là một trong 3 bài kinh quan trọng nhất của Tịnh độ tông. Nội dung kinh mô tả về cõi Tây phương cực lạc tiếng Phạn Sukhavati, vùng đất thanh tịnh của Phật A Di Đà tiếng Phạn Amitabha Buddha. Hai bài kinh khác trong bộ này là kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh Vô Lượng bản này có ảnh hưởng lớn trong Phật giáo Đông Á bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam. Nó cũng được tôn kính bởi Jōdo Shinshū, một trong những tổ chức Phật giáo lớn nhất tại Nhật A Di Đà ra đời trong thời kỳ phát triển của tư tưởng Đại thừa. Được dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán trong thời Diêu Tần bởi Pháp sư Cưu Ma La Thập sinh năm 344, mất năm 413, người gốc Ấn Độ và là dịch giả Phật giáo nổi tiếng chuyên dịch kinh sách từ văn hệ tiếng Phạn ra tiếng kinh mà Phật tử Việt Nam thường tụng là bản dịch của Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, Vạn Phật Thánh Thành dịch từ bản tiếng Hán của Ngài Cưu Ma La nghĩa của kinh A Di ĐàPhần lớn nội dung kinh A Di Đà mô tả buổi nói chuyện giữa Phật Thích Ca và Ngài Xá Lợi Phất về vùng đất Tây phương với nhiều điều kỳ diệu không thể tìm thấy ở bất cứ đâu trên trái đất này. Từ chim, cỏ, hoa lá cho đến những sinh vật cư ngụ ở đó đều biểu lộ sự vi diệu của giáo pháp. Văn bản cũng mô tả những gì Phật tử phải làm để được tái sinh ở số người cho rằng, kinh A Di Đà không phải do Phật Thích Ca nói mà lại ghi là “Kinh Phật Thuyết A Di Đà”! Họ nói rằng đây chỉ là một trong nhiều bài kinh “phương tiện” nhằm “thu hút” Phật tử với mong ước thoát khỏi cảnh khổ ở hiện tại mà phát tâm tu hành để tái sinh về cảnh giới cực lạc, an vui tràn đầy hạnh nhiên, một số khác tin rằng kinh A Di Đà chuyển tải nội dung sâu xa hơn rất nhiều với những gì mà người thường có thể nghĩ đến, và đương nhiên họ tin rằng bài kinh này do Phật Thích Ca thuyết giảng. Nhận ra ý nghĩa cao thâm vi diệu này, Hòa Thượng Thích Trí Quảng chia sẻ“Niệm Phật không phải là kêu tên Phật. Đa số đều lầm tưởng kêu tên Phật là niệm Phật. Niệm Phật hoàn toàn khác với kêu tên Phật. Suốt ngày chúng ta đọc Nam-mô A Di Đà Phật là kêu tên Phật để vãng sanh thì không thể nào vãng sanh được.”Niệm Phật là chỉ nơi tâm mà hành trì, chứ không qua trung gian phương tiện giúp chúng ta đạt đến nhất tâm bất loạn. Cõi tịnh độ của Phật A Di Đà được ẩn dụ cho sự vô thủy vô chung. Còn gọi là vô lượng thọ, vô lượng quang, hay pháp giới tạng chính xác hơn, nếu chúng ta mô tả một vị Phật dựa trên căn bản giác ngộ viên mãn, chúng ta sẽ đi đến một lý tưởng về Phật nghĩa làVô lượng quang biểu tượng của trí tuệ giải thoát Phật trí.Vô lượng thọ biểu tượng của đại định tâm giải thoát, ở ngoài các vọng tưởng phân quy lại, ý nghĩa của kinh A Di Đà và toàn bộ tông chỉ của pháp môn niệm Phật là hướng tâm về sự tinh khiết của nguyên thủy. Không sinh, không diệt, không giới hạn, không phân biệt…bản chất nguyên thủy của tất cả chúng sinh hay còn được gọi là Phật tính, Niết nhận ra Phật tính rồi thì nơi mình ở sẽ là cực lạc – kim cương, châu báu, cảnh đẹp… tất cả chỉ mang tính biểu tượng đại diện cho “vẻ đẹp”, “giàu sang”…mà phàm phu thường ngộ nhận là hạnh phúc để họ dễ hình dung mà nương theo tu Phật thuyết A Di Đà Hán dịch Dao Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Việt dịch Ban Phiên Dịch Việt Ngữ, Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, Vạn Phật Thánh ThànhKỳ viên đại hộiNhư vậy tôi nghe Một thuở nọ, Phật ở nước Xá Vệ, vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, cùng với đại Tỳ-kheo một nghìn hai trăm năm mươi vị cùng ở chung, đều là bậc đại A La Hán, mọi người đều biết là Trưởng lão Xá-lợi-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha-Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Câu-hy-la, Ly-bà-đa, Châu-lợi-bàn-đà-dà, Nan-đà, A Nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề, Tân-đầu-Lô phả-la-đọa, Ca-lưu-đà-ni, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, A-nậu-lâu-đà, và các vị đệ tử lớn như vậy nhiều nữa; cùng các vị Bồ-tát Ma-ha-tát như Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, A-dật-đa Bồ-tát, Càn-đà-ha-đề Bồ-tát, Thường Tinh Tấn Bồ tát và các vị Bồ-tát lớn nhiều như thế nữa; cùng với Thích Đề Hoàn Nhơn..v..v.. vô lượng chư thiên đại chúng đồng câu báo chánh báoBấy giờ đức Phật bảo Trưởng lão Xá-lợi-phất “Từ đây qua phương Tây cách mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc, nước ấy có Phật hiệu là A Di Đà hiện đang thuyết pháp ở báo trang nghiêmNày Xá-lợi-phất! Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc?Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui, cho nên gọi là Cực này Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực Lạc có bảy lớp lan thuẩn, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây đều bằng bốn thứ báu vây quanh giáp vòng, cho nên nước ấy tên là Cực này Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực Lạc có ao bảy báu, nước tám công đức tràn đầy trong đó. Đáy ao toàn trải cát bằng vàng. Thềm đường bốn phía do vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Bên trên có lầu có các, cũng dùng đủ loại vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não để trang sen trong ao lớn như bánh xe, màu xanh có ánh sáng xanh, màu vàng có ánh sáng vàng, màu đỏ có ánh sáng đỏ, màu trắng có ánh sánh trắng, thơm ngát vi Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế!Lại này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia, thường trổi nhạc trời, vàng ròng làm đất, ngày đêm sáu thời, mưa hoa Mạn-đà-la cõi trời. Chúng sanh ở cõi ấy, cứ mỗi sáng sớm, thường dùng đãy y, đựng các hoa đẹp, đem cúng dường mười vạn ức Phật ở phương khác, vừa đến giờ ăn, trở về nước mình, ăn cơm, kinh Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế! Lại này nữa Xá-lợi-phất, cõi nước kia thường có các loài chim mầu sắc kỳ diệu, như Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng thứ chim này, ngày đêm sáu thời, hót lên tiếng hòa nhã, tiếng ấy diễn xướng năm căn, năm lực, bảy Bồ-đề phần, tám thánh đạo phần. Các pháp như thế ấy, chúng sanh ở nước kia nghe âm thanh này rồi, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!Này Xá-lợi-phất, ông chớ cho rằng chim này thiệt là do tội báo sanh ra. Tại sao thế? Vì cõi nước của Phật kia không có ba ác đạo. Này Xá-lợi-phất, cõi nước của Phật kia còn không có tên của ác đạo, huống chi lại có thật. Các thứ chim ấy đều là do Phật A Di Đà muốn cho tiếng Pháp âm truyền khắp mà biến hóa ra như Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia, gió nhẹ lay động các hàng cây báu và các lưới báu, phát ra âm thanh vi diệu, giống như trăm nghìn thứ âm nhạc đồng trỗi một lượt. Ai nghe tiếng này rồi, tự nhiên đều sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như báo vô lượng thù thắngNày Xá-lợi-phất, ý ông nghĩ sao? Tại sao Đức Phật kia có tên là A Di Đà? Này Xá-lợi-phất, Đức Phật kia có ánh sáng vô lượng, chiếu suốt mười phương cõi nước không bị chướng ngại, cho nên có tên là A Di này Xá-lợi-phất, mạng sống của Phật kia và nhân dân của Ngài, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cho nên có tên là A Di Đà. Này Xá-lợi-phất, Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã mười kiếp. Lại này Xá-lợi-phất, Đức Phật kia có vô lượng vô biên chúng đệ tử Thanh Văn đều là bực đại A-la-hán, không thể tính đếm mà biết được, các chúng Bồ-tát cũng nhiều như Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế! Lại này Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc, chúng sanh sanh về đều là bực A-bệ-bạt-trí. Trong đó có nhiều vị Nhất sanh bổ xứ. Số đó nhiều đến nỗi không thể tính đếm mà biết được, chỉ có dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để Xá-lợi-phất, chúng sanh nghe được những điều này, phải nên phát nguyện, nguyện sanh về nước kia. Tại sao thế? Vì được ở cùng một chỗ với các bậc Thượng thiện hạnh vãng sanhNày Xá-lợi-phất, không nên cho rằng có chút ít nhơn duyên phước đức căn lành mà được sanh về nước kia Xá-lợi-phất, nếu có hàng thiện nam thiện nữ nào nghe nói về Phật A Di Đà rồi chấp trì danh hiệu Ngài, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bẩy ngày, nhất tâm bất loạn. Người ấy khi lâm chung thấy Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng hiện ra trước mặt. Khi chết người ấy tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Xá-lợi-phất, ta thấy những điều lợi ấy nên mới nói như vậy. Nếu có chúng sinh nào nghe ta nói đây, phải nên phát nguyện sanh về nước phương Phật đồng khuyên tinNày Xá-lợi-phất, như ta hôm nay ngợi khen lợi ích về công đức không thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà. Ở phương Đông cũng có Phật A Súc Bệ, Phật Tu Di Tướng, Phật Đại Tu Di, Phật Tu Di Quang, Phật Diệu như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy Chúng sanh các ngươi phải nên tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Nam có Phật Nhật Nguyệt Đăng, Phật Danh Văn Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tu Di Đăng, Phật Vô Lượng Tinh Tấn. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Tây có Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng, Phật Đại Quang, Phật Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Bắc có Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nan Trở, Phật Nhật Sanh, Phật Võng Minh. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” Xá-lợi-phất, thế giới phương Dưới có Phật Sư Tử, Phật Danh Văn, Phật Danh Quang, Phật Đạt Ma, Phật Pháp Tràng, Phật Trì Pháp. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn, và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Trên có Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật Hương Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Ta La Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Phật Tu Di như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn, và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” Xá-lợi-phất, ý của ông nghĩ sao? Tại sao gọi là “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm”? Này Xá-lợi-phất, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào nghe Kinh này mà thọ trì, và nghe được danh hiệu của chư Phật, thì những thiện nam thiện nữ ấy đều được tất cả chư Phật hộ niệm cho và đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên này Xá-lợi-phất, các ông hãy nên tin nhận lời ta và lời chư Phật Xá-lợi-phất, nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về nước của Phật A Di Đà thì những người đó đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ở nước Phật kia, những người này hoặc đã sanh, hoặc đang sanh về, hoặc sẽ sanh. Cho nên này Xá-lợi-phất, các thiện nam tử thiện nữ nhân, nếu ai có lòng tin hãy nên phát nguyện sanh về cõi nước kinh bất khóNày Xá-lợi-phất, như ta hôm nay khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của chư Phật, các Đức Phật kia cũng ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của ta và nói như thế nầyĐức Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm được những việc rất khó làm và ít có; ở trong cõi nước Ta Bà, trong đời ác năm trược Kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trược được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ngài giảng cho các chúng sanh nghe pháp tất cả thế gian khó tin Xá-lợi-phất, nên biết ta ở đời ác năm trược làm việc khó làm này, được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nói cho tất cả thế gian pháp khó tin này, thật là rất khó!Phật nói Kinh này rồi, ngài Xá-lợi-phất và các Tỳ-kheo, tất cả người, trời, A-tu-la… ở thế gian nghe Phật nói rồi đều hoan hỉ tin nhận, lễ Phật mà lui thúc Kinh Phật Thuyết A Di thức tụng kinh A Di ĐàNghi thức sám hối trước khi tụng kinhTrước khi tụng kinh thì Phật tử dùng ba nghiệp thân khẩu ý, thanh tịnh mà tụng kinh, thời phước đức vô lượng, nên trước khi tụng kinh cần phải sám hối. Sám hối tức là làm cho ba nghiệp thanh mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Chư Phật. [1 lạy] Nam mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Tôn Pháp. [1 lạy] Nam mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Hiền Thánh Tăng. [1 lạy][Quỳ xuống, tay cầm hương cúng dường phát nguyện]Nguyện mây hương mầu này Khắp cùng mười phương cõi Cúng dường tất cả Phật Tôn Pháp, các Bồ Tát, Vô biên chúng Thanh Văn Và cả thảy Thánh Hiền Duyên khởi đài sáng chói Trùm đến vô biên cõi, Khắp xông các chúng sinh Đều phát lòng Bồ Đề, Xa lìa những nghiệp vọng Trọn nên đạo vô thượng.[Cắm hương, lạy 1 lạy][Đứng chắp tay, xướng]Sắc thân Như Lai đẹp Trong đời không ai bằng Không sánh, chẳng nghĩ bàn Nên nay con đảnh lễ. Sắc thân Phật vô tận Trí huệ Phật cũng thế, Tất cả pháp thường trú Cho nên con về nương. Sức trí lớn nguyện lớn Khắp độ chúng quần sanh, Khiến bỏ thân nóng khổ Sanh kia nước mát vui. Con nay sạch ba nghiệp Quy y và lễ tán Nguyện cùng các chúng sanh Đồng sanh nước An Lạc. Án phạ nhựt ra vật [7 lần].Chí tâm đảnh lễThường tịch quang tịnh độ A Di Đà Như Lai Pháp thân mầu thanh tịnh Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]Chí tâm đảnh lễThật báo trang nghiêm độ A Di Đà Như Lai Thân tướng hải vi trần Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]Chí tâm đảnh lễPhương tiện thánh cư độ A Di Đà Như Lai Thân trang nghiêm giải thoát Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]Chí tâm đảnh lễCõi An Lạc phương Tây A Di Đà Như Lai Thân căn giới Đại Thừa Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]Chí tâm đảnh lễCõi An Lạc phương Tây A Di Đà Như Lai Thân hóa đến mười phương Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]Chí tâm đảnh lễCõi An Lạc phương Tây Giáo hạnh lý ba kinh Tột nói bày y chánh Khắp pháp giới Tôn Pháp. [1 lạy]Chí tâm đảnh lễCõi An Lạc phương Tây Quán Thế Aâm Bồ Tát Thân tử kim muôn ức Khắp pháp giới Bồ Tát. [1 lạy]Chí tâm đảnh lễCõi An Lạc phương Tây Đại Thế Chí Bồ tát Thân trí sáng vô biên Khắp pháp giới Bồ Tát. [1 lạy]Chí tâm đảnh lễCõi An Lạc phương Tây Thanh tịnh đại hải chúng Thân hai nghiêm Phước, Trí Khắp pháp giới Thánh Chúng. [1 lạy][Đứng chắp tay, nguyện]Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi cùng chúng sanh trong pháp giới, đều nguyện dứt trừ ba chướng nên qui mạng sám hối. [1 lạy, qùy và chắp tay sám hối]Chí tâm sám hốiĐệ tử … và chúng sanh trong pháp giới, từ đời vô thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô minh che đậy nên điên đảo mê lầm, lại do sáu căn ba nghiệp quen theo pháp chẳng lành, rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô gián và tất cả các tội khác, nhiều vô lượng vô biên, nói không thể phương các đức Phật thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong, chiếu soi tất cả. Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư từ vô thỉ đến nay, sáu căn che mù, ba nghiệp tối tăm, chẳng thấy chẳng nghe, chẳng hay chẳng biết, vì nhơn duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ, trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra rằng Đức Tỳ Lô Giá La thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường Tịch Quang, cho nên phải biết cảø thảy các pháp đều là Phật pháp, mà con không rõ, lại theo giòng vô minh vì thế trong trí Bồ Đề mà thấy không thanh tịnh, trong cảnh giải thoát mà sanh ràng mới tỏ ngộ, nay mới chừa bỏ, ăn năn phụng đối trước các đức Phật và A Di Đà Thế Tôn mà phát lồ sám hối, làm cho đệ tử cùng pháp giới chúng sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô thỉ, hoặc hiện tại cùng vị lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt ráo thanh tử sám hối rồi, sáu căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu tập cũng trọn thanh tịnh, thảy đều hồi hướng dùng trang nghiêm tịnh độ, khắp với chúng sinh, đồng sanh về nước An đức A Di Đà Phật thường đến hộ trì, làm cho căn lành của đệ tử hiện tiền tăng tấn, chẳng mất nhân duyên Tịnh độ, đến giờ lâm chung, thân an lành, niệm chánh vững vàng, xem nghe đều rõ ràng, tận mặt thấy đức A Di Đà cùng các Thánh Chúng, tay cầm đài hoa tiếp dẫn đệ tử, trong khoảnh sát na sanh ra trước Phật, đủ đạo hạnh Bồ Tát, rộng độ khắp chúng sanh đồng thành Phật tử sám hối phát nguyện rồi quy mạng đảnh lễ Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, đại từ đại bi, A Di Đà Như Lai, biến pháp giới Tam Bảo. [1 lạy] [Lạy xong bắt đầu nghi thức tụng kinh.]Nghi thức tụng kinhBài tán lư hươngLư hương vừa ngút chiên đàn Khói thơm ngào ngạt muông ngàn cõi xa Lòng con kính ngưỡng thiết tha Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh. Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát Ma Ha Tát. [3 lần]Chơn ngôn tịnh pháp giớiÁn Lam [7 lần]Chơn ngôn tịnh ba nghiệpTu rị Tu rị ma ha Tu rị Tu rị ta bà ha. [3 lần]Chơn ngôn phổ cúng dườngÁn nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng. [3 lần]Bài văn phát nguyệnNam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo [3 lần] Lạy đấng tam giới tôn Quy mạng mười phương Phật Nay con phát nguyện lớn Trì tụng Kinh A Di Đà Trên đền bốn ơn nặng Dưới cưú khổ tam đồ Nếu có ai thấy nghe Đều phát Bồ đề tâm Khi mãn báo thân này Sanh qua cõi Cực lạc. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật [3 lần]Bài kệ khai kinh A Di ĐàPhật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng, Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu. Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật, Bồ Tát Ma Ha tát [3 lần]Sau khi đọc bài kệ khai kinh thì quý Phật tử bắt đầu tụng bài kinh Phật thuyết A Di Đà đã được chia sẻ bên khuyết chơn ngônNam mô tam mãn đa một đà nẫm, a bát ra đế, yết đa chiết, chiết nại di. Aùn, kê di kê di, đát tháp cát tháp nẫm, mạt ngõa sơn đính, bát ra đeá, ô đát ma đát ma, đát tháp cát tháp nẫm, mạt ngõa hồng phấn tóa ha [7 lần]Nam mô Hoa-Tạng Giáo Chủ Tỳ-Lô Giá-Na Phật [3 lần]Bồ khuyết tâm kinhMa-Ha Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm KinhQuán-Tự-Tại Bồ Tát hành thâm Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhứt thiết khổ Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như Thị chư pháp không tướng bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô vô sở đắc cố, Bồ Đề tát đỏa y Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa cố, đắc a-nậu đa-la tam-miệu tam bồ tri Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng-đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thật bất thuyết Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa chú. Tức thuyết chú viết“Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la- tăng yếr-đế, bồ đề tát-bà-ha”. [3 lần]Vãng sanh quyết định chơn ngônNam mô A Di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa, tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, già di nị già già na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. [3 lần]Khể thủ Tây Phương An Lạc quốcTiếp dẫn chúng sanh đại đạo sưNgã kim phát nguyện nguyện vãng sanhDuy nguyện từ bi ai nhiếp kim phổ vị tứ ân tam hữu, cập pháp giới chúng sanh cầu ư chư Phật, nhứt thừa vô thượng bồ đề đạo cố, chuyên tâm trì niệm A Di Đà Phật vạn đức hồng danh kỳ sanh Tịnh Độ. Duy nguyện Từ phụ A Di Đà Phật ai lân nhiếp thọ từ bi gia Di Đà thân kim sắcTướng hảo quang minh vô đẳng luân,Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-Di,Hám mục trừng thanh tứ đại hải,Quang Trung hóa Phật vô số ức,Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên,Tứ thập bát nguyện độ chúng sinhCửu phẩm hàm linh đăng bỉ Mô Tây phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật [niệm 10, 20, 30 câu, tùy ý]Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát [10 niệm]Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát [10 niệm]Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát [10 niệm]Nam mô Thanh-Tịnh Đại-Hải-Chúng Bồ Tát. [10 niệm]Phúng kinh công đức thù thắng hạnh,Vô biên thắng phước giai hồi hướng,Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,Tốc vãng vô lượng quang Phật tiêu tam chướng trừ phiền não,Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu,Phổ nguyện tội chướng tất tiêu thế thường hành Bồ tát sanh Tây phương Tịnh Độ trung,Cửu phẩm Liên hoa vi phụ mẫu,Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,Bất thối Bồ tát vi bạn dĩ thử công đức,Phổ cập ư nhất thiết,Ngã đẳng dữ chúng sanhGiai cọng thành Phật quy yTự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm [1 lạy]Tự quy Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải [1 lạy]Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. [1 lạy]Hồi hướngNguyện đem công đức này, Hướng về khắp tất cả. Đệ tử và chúng sinh, Đều trọn thành Phật điều tâm niệm sau khi thực hiện xong nghi thức tụng kinh A Di ĐàNghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường kiêu tiếp đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo người thì đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có ý mưu lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân quả chưa vậy Đức Phật dạyLấy bệnh khổ làm thuốc thầnLấy hoạn nạn làm giải thoátLấy khúc mắc làm thú vịLấy ma quân làm bạn đạoLấy khó khăn làm thích thúLấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡLấy người chống đối làm nơi gia duCoi thi ân như đôi dép bỏLây sự xả lợi làm vinh hoaLấy oan ức làm cửa ngõ đạo chấp thuận trở ngại thì thông suốt, mà mong cầu thông suốt thì sẽ bị trở ngại. Đức Thế Tôn thực hiện tuệ giác Bồ đề ngay trong sự trở ngại, như Ương-Quật hành hung, Đề-Bà quấy phá, mà Ngài giáo hóa cho thành đạo cả. Như vậy há không phải chính sự chống đối lại làm sự thuận lợi và sự phá hoại laị làm sự tác thành cho ta?Ngày nay, những người học đạo, trước hết không dấn mình vào trong mọi sự trởi ngại, nên khi trở ngại áp đến thì không thể ứng phó. Chánh pháp chí thượng vì vậy mất hết, đáng tiếc đáng hận biết ngần nào!Hoa Sen Phật – Tham khảo Thư Viện Hoa SenẢnh “Nam Mô A Di Đà Phật” là câu niệm của những Phật tử thuộc phái Tịnh Độ với ý nghĩa mong Phật A Di Đà tiếp thêm sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn, cách trở. Tuy nhiên còn rất nhiều ý nghĩa khác cũng như những sự tích ly kỳ về Đức Phật A Di Đà. Bài viết hôm nay, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu Phật A Di Đà nhé. Phật A Di Đà là ai? Phật A Di Đà là đức Phật vô lượng thọ vô lượng quang, là một trong những vị Phật trong thần thoại của Phật giáo Đại Thừa. Ngài ngụ ở tinh độ của mình, tới thế giới với vai trò cứu độ. Phật A Di Đà là ai? Theo ghi chép của Đại Kinh A Di Đà, trong kiếp sống trước đây, Ngài là vị tăng mang tên Dharmakara. Ngài nguyện tịnh hóa và trang nghiêm một thế giới để có thể biến thành một trong những Phật độ sạch sẽ, thanh tịnh nhất. Khi tỉnh giác, hoàn thành lời nguyện, Dharmakara sẽ trở thành Phật A Di Đà ngụ tại thế giới Ngài đã tịnh hóa gọi là Cực Lạc. Từ thế giới Ngài đến với chúng ta, xung quanh có các vị bồ tát, chào mừng những người đã khuất để dẫn họ tái sinh ở đất Phật. Trong các văn liệu cổ xưa của Phật giáo Ấn Độ, sự tích Đức Phật A Di Đà được ghi chép cụ thể. Tuy nhiên, tới đầu Công nguyên thì hiệu A Di Đà xuất hiện với vai trò là một phụ Phật tại phương Tây có trong Ngũ phương Phật. Về phẩm chất, Phật A Di Đà tương đối giống với những vị Phật Đại thừa khác. Tuy nhiên, Phật A Di Đà luôn gắn với ánh sáng chiều tà vô cùng rạng rỡ, tỏa sắp vũ trụ mà không thiêu đốt. Đức Phật A Di Đà là ai? Phẩm chất phát quang của Ngài luôn được nhấn mạnh trong văn hóa Đông Á. Sự cứu hộ của Ngài được thể đảm bảo bằng cách gọi tên, khấn danh hiệu “Nam mô a di đà Phật”. Theo kinh điển của Phật giáo Đại Thừa thì Phật A Di Đà là một vị vua từ bỏ vương quốc để trở thành một tu sĩ Phật giáo. Tên gọi của Ngài là Dharmakara, dịch ra mang ý nghĩa “Kho Chứa Pháp”. Phật A Di Đà có thật hay không? Theo lịch sử Phật A Di Đà thì Ngài lần đầu tiên được nhắc tới trong Kinh Vô Lượng Thọ. Giải thích về nguồn gốc cũng như niềm tin vào Ngài trích trong Bách khoa toàn thư Việt cho rằng đức tin vào Ngài là sản phẩm của những học giả Phật giáo ra đời vào Thế kỷ 1 TCN. Đây chính là lý do không có căn cứ chứng minh Phật A Di Đà có thật không. Phật A Di Đà có thật hay không? Tuy nhiên, những lý luận này chỉ dựa vào khảo cổ của những nhà học giả. Có không ít học giả truyền thống xem kinh điển Đại Thừa từ những bản đầu tiên của Prajnaparamita cũng như bản có liên quan tới Akshobhya. Một số kinh điển của Đại Thừa được dịch những nhà sư Gandhara đã tới Trung Quốc. Bản dịch của nhà sư này sang tiếng Trung được thực hiện tại Luoyang từ 178 – 1189 CE. Do đáo, đa phần các học giả đều nghĩ Đại thừa sớm nhất hầu hết được sáng tác tại miền nam Ấn độ sau đó viết bổ sung kinh sách tạo phía Bắc. Tuy nhiên, giả định về sự phát triển rộng khắp và được chấp nhận về niềm tin của kinh điển Đại Thừa từ xa xưa cũng không hoàn toàn vô lý. Việc Phật A Di Đà có thật không chưa có cơ sở nào để kiểm chứng. Để trả lời câu hỏi này thì còn tùy thuộc vào nhân duyên của mỗi người để chọn pháp môn phù hợp. Trong Phật Giáo, có một vị Phật Tổ được kiểm chứng là có thật trên cõi đời này. Người ấy không ai khác chính là Phật Thích Ca Mâu Ni hay Phật Tổ Như Lai. Tìm hiểu thêm về người ngay tại đây! Sự tích cuộc đời Phật A Di Đà Trong kinh Đại A Di Đà, thời Đức Phật Tự Tại Vương có vị quốc vương tên Kiều Thi Ca. Vua nghe Phật thuyết pháp liền bỏ vương quốc để xuất gia với hiệu Pháp Tạng. Ngài lễ Phật và quỳ cầu Phật chứng minh cùng 48 lời nguyện. Nguyện lực này về sau trở thành Phật hiệu A Di Đà. Sự tích về cuộc đời Phật A Di Đà Theo kinh Bi Hoa, cuộc đời vua Vô Tránh Niệm có đại thần Bảo Hải. Vị ngày có người con tên Bảo Tạng, sau khi xuất gia lấy hiệu Bảo Tạng như Lai. Một hôm, sau khi nghe Phật thuyết pháp, vua Tránh Niệm liền muốn cúng dưỡng món ăn và y phục cho Đức Phật cũng như đại chúng trong thời gian 3 tháng. Đai Thần Bảo Hải có lời khuyên vua nên phát tâm bồ đề. Vua Tránh Niệm nguyện sau này khi trở thành Phật sẽ làm giáo chủ cảnh giới thanh tịnh để giáo hóa chúng sanh. Sau khi vua phát nguyện xong, Bảo Tạng Như Lai thọ ký cho vua sau trở thành Phật hiệu là A Di Đà, nước của Ngài sẽ là cõi Cực Lạc Tây Phương. Còn đại thần Bảo Hải sau thành Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật A Di Đà trong Kinh Phật đã được ca ngợi lần đầu tiên trong Kinh Vô Lượng Thọ. Theo Đức Phật Thích ca, muốn được giải thoát hoàn toàn thì có tới 8 vạn 4 ngàn con đường. Trong những con đường đó, con đường của Phật A Di Đà là ngắn nhất để thành Phật. Thêm vào đó, Phật Thích Ca cũng nhấn mạnh con đường của Đức phật A Di Đà là tồn tại duy nhất thêm 100 năm sau khi mọi con đường thành đạo đã bị quên lãng tới hết thời mạt pháp. Ngày vía Phật A Di Đà diễn ra vào ngày 17 tháng 11 âm lịch hàng năm. Tới ngày này, Phật tử các nơi làm lễ vía Ngài. Tới ngày này nếu quý vị không thể đi chùa có thể làm mâm cúng tại nhà đều được. Nam mô di đà phật là gì? Nam mô A Di Đà Phật là gì? Câu niệm Phật này ai cũng biết nhưng không phải ai cũng hiểu được Nam mô A Di Đà Phật nghĩa là gì. Câu niệm Phật này được hiểu là “Quy uy, đoạn ác, tụ thiện, tụ tinh nghiệp“. A Di Đà là vô thượng, vô lượng giác cũng như chí cực và đại thừa. A là 10 phương, đời tam thế Phật. Di là tất cả các Bồ Tát. Đà là 8 vạn chư kinh giáo Phật. Nam mô di đà phật là gì? Chữ A Di Đà không chỉ là danh xưng Phật Pháp Tạng mà còn nhắc người tụng niệm nhận thức rõ thân phận của mình. Cần dựa vào thần lực của Phật để chiến thắng sự yếu hèn của bản thân, đứng vững tới khi chết. Người tin vào Tịnh độ chủ yếu tới từ những nước Đông Á. Trong khi đó, Nam Á và Ấn độ thì tin rằng chỉ có bản thân mình với giúp được mình. Rất nhiều người không theo Phật giáo không biết được điểm khác nhau giữa Phật A Di Đà và Phật Thích Ca. Nếu quý vị chưa rõ, hãy ấn xem ngay tại đây! Cách thờ Phật A Di Đà tại nhà Ở Việt Nam, cách thờ Phật A Di Đà tại nhà giống như các vị Phật khác. Có thể thờ chung bàn thờ Phật chung với bàn thờ gia tiên. Tuy nhiên bàn thờ Phật đặt cao hơn bàn thờ gia tiên. Vị trí đặt bàn thờ Trung tâm ngôi nhà, nên đặt giữa phòng khách. Nếu diện tích nhỏ thì nên đặt ở phòng riêng biệt. Hướng bàn thờ Bàn thờ Phật A Di Đà cần hướng ra cửa chính của ngôi nhà. Theo một số chuyên gia phong thủy thì các gia đình nên đặt bàn thờ tại hướng Tây Bắc của ngôi nhà. Đây là hướng tượng trưng cho trời, mang ý nghĩa Tây Thiên Cực Lạc. Cách thờ Phật A Di Đà tại nhà Nếu quý vị chưa có bàn thờ Phật hay đang muốn tham khảo các mẫu và giá. Ấn vào đây để xem các mẫu bàn thờ Phật đẹp, cung kính trang nghiêm nhất tại cửa hàng chúng tôi. Trên đây là toàn bộ thông tin liên quan tới Phật A Di Đà mà chúng tôi muốn chia sẻ với bạn đọc. Vào ngày vía Phật A Di Đà, hãy cầu xin để gia đình được mạnh khỏe, hạnh phúc. Hãy cùng hướng về Ngài để làm điều phước, thiện, nguyện cầu thế giới không còn khổ đau, chia rẽ. Đăng nhập

a di đà phật tiếng hoa là gì